Đang gửi...

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN NUÔI CON VÀ VẤN ĐỀ CẤP DƯỠNG, THĂM NOM CON SAU HÔN NHÂN MỚI NHẤT NĂM 2022

Lượt xem 332
Khi làm thủ tục ly hôn, một trong những vấn đề các cặp cha mẹ quan tâm hàng đầu chính là vấn đề nuôi con, cấp dưỡng và thăm nom con cái. Việc tranh chấp quyền nuôi con là điều không thể tránh khỏi, bởi cả người cha lẫn mẹ đều muốn là người trực tiếp nuôi dưỡng con cái mình. Vậy giải quyết vấn đề tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn như thế nào? Luật Doanh Trí xin gửi tới Quý bạn đọc những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con và vấn đề cấp dưỡng, thăm nom con sau hôn nhân mới nhất năm 2022.

Mục lục

Khi làm thủ tục ly hôn, một trong những vấn đề các cặp cha mẹ quan tâm hàng đầu chính là vấn đề nuôi con, cấp dưỡng và thăm nom con cái. Việc tranh chấp quyền nuôi con là điều không thể tránh khỏi, bởi cả người cha lẫn mẹ đều muốn là người trực tiếp nuôi dưỡng con cái mình. Vậy giải quyết vấn đề tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn như thế nào? Luật Doanh Trí xin gửi tới Quý bạn đọc những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con và vấn đề cấp dưỡng, thăm nom con sau hôn nhân mới nhất năm 2022.

1. Cơ sở pháp lý:

- Luật hôn nhân gia đình 2014.

2. Giải quyết tranh chấp quyền nuôi con:

Đối với vấn đề nuôi con, khi xử lý vụ việc tại toà án, trước tiên Toà sẽ yêu cầu vợ và chồng phải thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.

Nếu vợ/chồng muốn giành quyền nuôi con thì bắt buộc phải chứng minh các điều kiện về tài chính; đạo đức, nhân phẩm; thời gian chăm sóc, giáo dục con cái. Ngoài ra còn xem xét đến các yếu tố vật chất như nơi ăn, ở, đi lại học tập của con và yếu tố tinh thần như điều kiện vui chơi, giải trí giúp con phát triển lành mạnh, trong sáng.

Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật HNGĐ, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

Tuy nhiên, người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn có thể bị thay đổi theo quyết định của Toà án nếu có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích, tổ chức (Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ) khi có một trong các căn cứ sau đây:

(i) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

(ii) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

3. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

Theo Luật hôn nhân và gia đình, cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Ngoài ra, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp việc chăm con cái bị can thiệp, làm ảnh hưởng đến đời sống thường ngày, cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

4. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn:

Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.

Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Việc cấp dưỡng không phải luôn kéo dài mãi mãi. Trong một số trường hợp có thể chấm dứt hoạt động cấp dưỡng. Theo luật hôn nhân và gia đình, nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;

(i) Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;

(ii) Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;

(iii) Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;

(iv) Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;

(v) Trường hợp khác theo quy định của luật.

Đối với các trường hợp có quyền yêu cầu cấp dưỡng, Điều 119 Luật hôn nhân và gia đình quy định các đối tượng sau có thể yêu cầu cấp dưỡng:

(i) Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

(ii) Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.

(iii) Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

 

Trên đây là những thông tin giải đáp thắc mắc của Quý khách hàng các vấn đề liên quan đến quyền nuôi con và vấn đề cấp dưỡng, thăm nom con sau hôn nhân mới nhất năm 2022. Để biết thêm thông tin chi tiết và tư vấn về vấn đề này Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp với Luật Doanh Trí theo một trong các phương thức sau:

Hotline: 024 888 38383

Email: [email protected]

Luật Doanh Trí rất hân hạnh khi được đồng hành cùng Quý Khách hàng!

Trân trọng./.

Bài viết ngày được thực hiện bởi: nguyenthithuytrang

Chức vụ: Giám đốc công ty

Lĩnh vực tư vấn: Dân sự, Hình sự, Doanh nghiệp

Trình độ đào tạo: Thạc sỹ Luật, MBA

Số năm kinh nghiệm thực tế: 10 năm

CÔNG TY TNHH
LUẬT DOANH TRÍ

TƯ VẤN PHÁP LUẬT
MIỄN PHÍ 24/7

1900 66 99 39

ĐẶT HẸN LUẬT SƯ, YÊU
CẦU DỊCH VỤ

024.88.83.83.83

Liên hệ với chúng tôi

Banner phải