QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CỦA VIỆC NAM NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÍ KẾT HÔN TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Mục lục
Quy định của pháp luật về việc giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn tại thành phố Hồ Chí Minh
Xem thêm: Nguyên tắc chia tài sản khi li hôn tại Việt Nam mới nhất năm 2022
1. Cơ sở pháp lý
- Luật hôn nhân và gia đình 2014;
- Nghị định 126/2014/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
2. Khái niệm
Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
"Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau như vợ chồng".
Như vậy: Nam nữ chung sống như vợ chồng là hành vi của hai bên nam nữ, tuy không phải là vợ chồng nhưng đã ăn ở với nhau và coi nhau là vợ chồng. Họ liên kết với nhau trên cơ sở tự nguyện và không đăng ký kết hôn. Việc kết hôn chỉ có giá trị pháp lý khi hai bên nam nữ tuân thủ các quy định của pháp luật về kết hôn và đăng ký kết hôn.
3. Sống chung như vợ chồng mà không kết hôn có trái pháp luật không?
Sống chung như vợ chồng mà không kết hôn có trái pháp luật không?
Xem thêm: Mức cấp dưỡng cho con cái khi ly hôn tại Việt Nam mới nhất năm 2022
Khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 giải thích: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau như là vợ chồng”
Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 nghiêm cấm các hành vi chung sống như vợ chồng sau đây:
- Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Như vậy: Việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không trái với Pháp luật hiện hành.
4. Giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:
Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
a. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
b. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Như vậy việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng sẽ dẫn đến hai hậu quả chính đó là việc phân chia tài sản và vấn đề nuôi con.
4.1. Giải quyết hậu quả liên quan đến việc phân chia tài sản của việc nam nữ sống chung mà không đăng kí kết hôn
- Đối với tài sản riêng của mỗi người thì tài sản của ai sẽ do người đó sở hữu
- Đối với tài sản chung: quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung phát sinh trong thời kì sống chung như vợ chồng sẽ được giải quyết theo điều 16 Luật hôn nhân gia đình như sau:
“ Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”
Như vậy trước tiên đôi nam nữ sống chung giải quyết hậu quả phân chia tài sản theo hình thức thỏa thuận. Nếu các bên thỏa thuận không thành hoặc không có thỏa thuận thì vấn đề này sẽ được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 và các quy định khác
- Không có thỏa thuận và thỏa thuận không thành việc phân chia tài sản được giải quyết theo Bộ luật dân sự 2015 như sau:
+ Theo điều 219 Bộ luật Dân sự 2015
” Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
+ Theo Điều 217 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sử dụng tài sản chung như sau:
“ Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
+ Theo Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung như sau:
a. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung.
Nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó.
Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
b. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”
Như vậy, đối với trường hợp hai bên nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn mà không có thỏa thuận về cách phân chia tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng thì các quan hệ này sẽ được giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 như trên và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
4.2. Giải quyết hậu quả liên quan đến việc nuôi con sau khi đôi nam nữ sống chung như vợ chồng ly hôn ở Thành phố Hồ Chí Minh
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, vấn đề tranh chấp về quyền nuôi con sau khi ly hôn thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này theo điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Như vậy Tòa án nhân dân cấp huyện ở TP. Hồ Chí Minh sẽ có thẩm quyền giải quyết hậu quả trong trường hợp các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không thành.
Giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
Xem thêm: Phân biệt giữa doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh mới nhất năm 2022
4.2.1. Quyền nuôi con của đôi nam nữ sống chung như vợ chồng sau khi không còn sống chung
Theo Điều 14, 15, 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái trong trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ giống với quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đăng ký kết hôn hợp pháp.
Như vậy việc giải quyết hậu quả của vấn đề sẽ giống như trường hợp vợ chồng hợp pháp ly hôn. Theo đó, khoản 2, khoản 3 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
“b. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
c. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Do đó:
- Vợ chồng sống chung không đăng kí kết hôn sẽ cùng nhau thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con.
- Trường hợp không thỏa thuận được thì:
+) Đối với bé trai (4 tuổi) sẽ được giao cho một bên trực tiếp nuôi, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Thông thường, Tòa án sẽ xem xét các điều kiện sau:
Điều kiện về vật chất: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ.
Điều kiện về tinh thần: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách, đạo đức, trình độ học vấn.. của cha mẹ.
+) Đối với bé gái 1 tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
4.2.2. Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sống chung sau khi giải quyết xong vấn đề nuôi con.
- Khi thực hiện quyết định ly hôn hoặc chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng thì người không trực tiếp nuôi con phải tuân thủ quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Theo đó, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con khi con sống với người còn lại, có nghĩa vụ cấp dưỡng và có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở. Tuy nhiên, không thể lấy lý do thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Khi đó, người có trách nhiệm nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom. Cụ thể, Điều 85 LHNGĐ 2014 quy định các trường hợp sau đây sẽ bị Tòa án hạn chế quyền thăm nom con:
+ Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý;
+ Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
+ Phá tài sản của con;
+ Có lối sống đồi trụy;
+ Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Khi có căn cứ cho rằng bên không trực tiếp nuôi con có các dấu hiệu được quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì bên trực tiếp nuôi con vì quyền lợi của con có quyền làm đơn đến Tòa án yêu cầu hạn chế quyền thăm nom của bên không trực tiếp nuôi con.
- Về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
+ Theo Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình 2014
“Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
Như vậy không chỉ được quyền thăm con mà người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để san sẻ một phần gánh nặng về tiền bạc đối với người nuôi con. Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Trước hết, mức cấp dưỡng sẽ do hai bên (cha và mẹ) thỏa thuận căn cứ vào thu nhập thực tế, khả năng tài chính của người cấp dưỡng cũng như nhu cầu chi tiêu của người con. Đặc biệt, khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng cũng do các bên thỏa thuận. Chỉ khi không thể thỏa thuận được, Tòa án mới quyết định áp dụng mức cấp dưỡng cho các bên. Các phương thức cấp dưỡng cũng khá linh hoạt; có thể cấp dưỡng định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận.
Hiện nay, pháp luật hiện hành không quy định mức cấp dưỡng cụ thể là 1 triệu, 2 triệu hay 5 triệu/tháng mà tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận dựa vào điều kiện, thu nhập của người cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Thông thường thực tế Toà án thường ấn định mức cấp dưỡng dao động 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng.
Trên đây là những thông tin về “Quy định của pháp luật về việc giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn”. Để biết thêm thông tin chi tiết và tư vấn về vấn đề này, Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp với Luật Doanh Trí theo một trong các phương thức sau:
Tổng đài tư vấn miễn phí 24/7: 1900 99 66 39
Yêu cầu dịch vụ, gửi báo giá: 024 88 83 83 83
Liên hệ qua email: [email protected] / [email protected]
Bài viết ngày được thực hiện bởi: Tô Anh Thư

Chức vụ: Giám đốc công ty
Lĩnh vực tư vấn: Dân sự, Hình sự, Doanh nghiệp
Trình độ đào tạo: Thạc sỹ Luật, MBA
Số năm kinh nghiệm thực tế: 10 năm
CÔNG TY TNHH
LUẬT DOANH TRÍ

TƯ VẤN PHÁP LUẬT
MIỄN PHÍ 24/7
ĐẶT HẸN LUẬT SƯ, YÊU
CẦU DỊCH VỤ
Mục khác
- Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng sau ly hôn được thực hiện như thế nào tại Việt Nam mới nhất năm 2022
- Thủ tục đăng ký thay đổi vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân như thế nào
- Thủ tục đăng ký kết hôn lại tại Thành phố Hồ Chí Minh mới nhất năm 2022
- Thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình không có giấy tờ nhà đất tại Hà Nội năm 2022
- Quy định pháp luật về hợp đồng xây dựng mới nhất năm 2022
- Trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất mới nhất năm 2022
- Điều kiện thành lập doanh nghiệp chế xuất có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới nhất năm 2022
- Các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
- Thủ tục gia hạn giấy chứng nhận mã số mã vạch
- CẦN CHUẨN BỊ NHỮNG GIẤY TỜ GÌ KHI THÀNH LẬP CÔNG TY
- THỦ TỤC SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP 2023
- Hồ sơ thành lập hộ kinh doanh gồm những gì
- Thủ tục hồ sơ xin visa (thị thực) Việt Nam